QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 168/DS-GĐT NGÀY 22/04/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU, SỬ DỤNG TÀI SẢN

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 22/4/2014, tại trụ sở Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự: “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng tài sản” do có Quyết định kháng nghị số 26/KN-DS ngàỵ 07/02/2014 của Chánh Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DS-PT 18/02/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nang có các đương sự là

Nguyên đơn:

Chị Đặng Thị Hương, sinh năm 1966;

Trú tại: số 15 ngõ 236, phố Lê Trọng Tấn, phường Khương Mai, quạ Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Bị đơn:

Ông Đặng Quang Thêm, sinh năm 1927;

Bà Bùi Thị Nhâm, sinh năm 1940;

Cùng trú tại: số 12, khu K3, đường Nguyễn Chí Diễu, tổ 35, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nang.

NHẬN THẤY

Trong đơn khởi kiện ngày 13/7/2008 nguyên đơn chị Đặng Thị Hương trình bày: Vào năm 2003, chị có mua đất và làm nhà tại số 12, khu K3, đường Nguyễn Chí Diễu, tổ 35, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nang. Vì điềukiện ở xa nên chị nhờ vợ chồng em gái là Đặng Thị Hòa và Nguyễn Công Sơn trú tại B4 lô 34 đường Lưu Hữu Phước, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nằng trực tiếp giao dịch mua đất và ký hợp đồng xây dựng nhà với nhà thầu trên lô đất nêu trên với tổng số tiền khoảng 600.000.000d (sáu trăm triệu đồng). Sau khi làm xong nhà, chị Hương mời bố, mẹ chị là ông Thêm và bà Nhâm (lúc bấy giờ đang sống tại xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nang) đến sống trong ngôi nhà này để gần gũi con cái. Ông Thêm, bà Nhâm đã đề xuất với vợ chồng em gái chị là chị Hòa, anh Sơn để cho ông, bà đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Hương nhằm tạo điều kiện cho ông Thêm, bà Nhâm chuyển hộ khẩu về quận Sơn Trà và chị Hòa, anh Sơn đã đồng ý. Sau khi sinh sống tại nhà chị Hương khoảng một năm, ông Thêm, bà Nhâm quay về Hòa Tiến để bán nhà đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mặc dù đứng tên ông Thêm, bà Nhâm nhưng lại do chị Hương giữ. Chị cho rằng em trai chị là anh Đặng Quang Bắc xúi dục bố, mẹ chị chiếm đoạt căn nhà nên khi chị yêu cầu bố, mẹ chuyển tên nhà và đất nói trên cho chị thì bố mẹ chị từ chối. Chị đề nghị Tòa án công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho chị tại số 12, khu K3, đường Nguyên Chí Diêu, tô 35, phường An Hải Băc, quận Sơn Trà, thành phô Đà Nang có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X426474 do UBND thành phố Đà Nang cấp ngày 29/3/2004.

Bị đơn ông Đặng Quang Thêm và bà Bùi Thị Nhâm trình bày: Ông bà khẳng định nhà và đất nêu trên là của vợ chồng ông bà. Đất là do ông bà nhờ con rể là anh Nguyễn Công Sơn mua hộ năm 2003 với giá 300.000.000 (ba trăm triệu đồng), năm 2004 ông bà tiến hành xây dựng nhà; việc xây dựng là do ông bà tự mua vật liệu, tự đứng tên họp đồng xây dựng với nhà thầu là ông Nguyễn Tiến ở Điện Ngọc, tỉnh Quảng Nam. Tiền mua đất và xây nhà là do ông bà bán nhà, đất ở Hòa Tiến và các con ông đóng góp.

Người làm chứng anh Nguyễn Công Sơn, chị Đặng Thị Hoa, chị Đặng Thị Thanh, anh Đặng Quang Nam, anh Nguyên Đức Dũng (là các con trai, gái, dâu, rê của ông Thêm, bà Nhâm) trình bày: Đồng nhất ý kiến với chị Hương.

Người làm chứng anh Đặng Niệm (cháu gọi ông Thêm bằng chú) trình bày: 14/4/2006 anh có mua nhà, đất tại thôn Lệ Sơn 2, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nằng của ông Thêm với giá 70.000.000 (bảy mươi triệu đồng). Ngày 14/8/2006 anh đã làm xong thủ tục sang tên theo quy định của Nhà nước.

Người làm chứng ông Nguyễn Tiến (nhà thầu xây dựng ngôi nhà đang tranh chấp) trình bày: Năm 2004 ông ký hợp đồng với anh Sơn nhận thi công xây dựng ngôi nhà tại số 12, khu K3, đường Nguyễn Chí Diễu, tổ 35, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, trong quá trình thi công ông chỉ làm việc với anh Sơn.

Người làm chứng ông Dương Dưỡng (chủ cũ của mảnh đất tranh chấp): Năm 2003 ông có bán cho anh Nguyễn Công Sơn một lô đất tại số 12, khu K3, đường Nguyễn Chí Diễu, tổ 35, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nang. Đen tháng 4/2004 thì làm thủ tục sang tên theo quy định.Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2010/DS-ST ngày 28/9/2010 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng quyết định: Chấp nhận yêu cầu “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng tài sản” của chị Đặng Thị Hương đôi với ông Đặng Quang Thêm và bà Bùi Thị Nhâm; xử công nhận nhà và đất tại sô 12, khu K3, đường Nguyên Chí Diêu, tô 35, phường An Hải Băc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X426474 do UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày 29/3/2004 thuộc quyền sở hữu, sử dụng của chị Đặng Thị Hương; kiên nghị UBND thành phố Đà Nẵng hủy Giấy chứng nhận quyên sử dụng đất nêu trên do ông Thêm, bà Nhâm đứng tên; công nhận sự tự nguyện của chị Hương cho ông Thêm, bà Nhâm lưu cư trong ngôi nhà trên đến hết đời.

Ngày 08/10/2010 ông Thêm, bà Nhâm kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DS-PT ngày 18/02/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định: Giữ nguyên án sơ thẩm.

Tại Quyết định số 26/KN-DS ngày 07/02/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DS-PT ngày 18/02/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2010/DS-ST ngày 28/9/2010 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện VKSND tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Chị Đặng Thị Hương cho rằng nhà đất tranh chấp nêu trên là tiền của chị gửi từ Hà Nội về nhờ anh Nguyễn Công Sơn đứng ra liên hệ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua vật liệu làm nhà. Sau đó, chị mời bố, mẹ là ông Đặng Quang Thêm, bà Bùi Thị Nhâm đến ở. Ông Thêm, bà Nhâm có ý định di chúc nhà đất cho anh Đặng Quang Bắc nên chị yêu cầu Tòa án buộc ông Thêm, bà Nhâm trả lại nhà, đất. Ông Thêm, bà Nhâm xác định tiền mua đất là của ông bà đưa cho anh Sơn giao dịch mua hộ và ông, bà đã ký họp đồng xây dựng với ông Nguyễn Tiến để làm nhà. Nguồn tiền do ông bà dành dụm và bán nhà ở xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cùng với số tiền (80.000.000) của con gái ông bà (chị Hương) cho.

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng toàn bộ các giấy tờ liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất tranh chấp (đơn xin chuyển nhượng quyền sử, dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sơ đồ vị trí đất xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất) đều đứng tên ông Thêm, bà Nhâm là người nhận chuyển nhượng và nộp thuế, lệ phí. Thực tế, sau khi xây xong nhà thì ông Thêm, bà Nhâm sử dụng. Còn lời khai của nhiều người làm chứng (một số người con của ông Thêm, bà Nhâm; ông Dưỡng là người chuyển nhượng quyền sử dụng đất; ông Tiến là nhà thầu xây dựng) đều xác nhận tiền mua đất, xây nhà là của chị Hương. Chị Hương cho rằng chị gửi tiền về cho anh Sơn để mua đất, làm nhà thông qua bưu điện ở thành phố Đà Nẵng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định việc chuyển tiền có chứng từ, nhưng kiểm tra hồ sơ (BL188) không có bản sao kê việc chuyển tiền như chị Hương khai. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm phải thu thập chứng cứ làm rõ có việc chị Hương gửi tiền, gửi bao nhiêu tiền để cho anh Sơn mua đất, làm nhà? Xác minh làm rõ có việc năm 2003 ông Thêm, bà Nhâm bán nhà đất để có tiền mua thửa đất tranh chấp hay không? Ông Dưỡng xác định không có giao dịch với ông Thêm, bà Nhâm nhưng giấy tờ chuyển nhượng đất lại ghi tên ông Thêm, bà Nhâm là vì sao? Làm rõ thực tế ai là người nộp lệ phí trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất để đánh giá đúng bản chất của sự việc nhằm bảo đảm quyền lợi của các đương sự. Trong trường hợp có đủ căn cứ xác định quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là của chị Hương thì cần phải xem xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Thêm, bà Nhâm với ông Dưỡng, bà Nguyễn Thị Tư cũng như chỗ ở của ông Thêm, bà Nhâm. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những vấn đề trên mà đã xác định tranh chấp là của chị Hương là chưa đủ căn cứ.

Từ những phân tích trên, xét kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DS-PT ngàỵ 18/02/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nang và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2010/DS-ST ngày 28/9/2010 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng tài sản” giữa nguyên đơn là chị Đặng Thị Hương với bị đơn là ông Đặng Quang Thêm, bà Bùi Thị Nhâm.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 168/DS-GĐT NGÀY 22/04/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU, SỬ DỤNG TÀI SẢN TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án